Thính Ngân - Chương 16
35
Lần này trở về Lâm Thành, ta còn gặp lại một cố nhân.
Khi rời khỏi sòng bạc, trên lầu xanh ven sông, ta thoáng nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc.
Chính là Oanh nương, người mà ta cứ ngỡ đã rời khỏi chốn hoa hương trở về nhà.
Thế gian chỉ biết đế cơ là Trường Chiêu công chúa, chẳng ai biết tên thật của ta, cho nên khi ta mang theo thị vệ ngự dụng bước vào thanh lâu tìm nàng, Oanh nương kinh ngạc đến mức không thốt nên lời.
Tiếp đó là run rẩy rơi lệ, xúc động cảm khái: “A Ngân, con bé năm nào, giờ thành thiếu nữ rồi.”
Nàng đã già đi ít nhiều, khuôn mặt tiều tụy tang thương, vượt xa tuổi thật của nàng.
Ta cứ ngỡ nàng bị người ta ép quay lại chốn kỹ viện, nhưng nàng nói, là chính nàng tự nguyện quay về.
Oanh nương trở về cố hương mà nàng luôn canh cánh trong lòng, gặp lại cha mẹ thân thích đã nhung nhớ bấy lâu, nhưng chẳng được như những gì nàng mong đợi. Ngay cả cha mẹ huynh muội cũng để tâm đến thân phận kỹ nữ của nàng, huống hồ gì hàng xóm láng giềng quanh đó. Nàng chịu đủ ánh mắt lạnh nhạt, lại chẳng thể giống như nữ nhi bình thường mà yên ổn gả chồng sinh sống – ai cũng chê nàng lớn tuổi, lại chẳng trong sạch.
Bị cha mẹ và huynh muội dỗ ngọt moi hết tiền bạc dành dụm bấy lâu, nàng không còn kế sinh nhai, cùng đường đành phải quay lại chốn hồng trần.
Đến lúc ấy nàng mới phát hiện ra, thì ra bản thân sớm đã không thoát ra nổi.
Chỉ tiếc rằng tuổi xuân đã qua, nhan sắc phai tàn, khách làng chơi ngày càng ít, có lần còn bị kẻ khác làm nhục, bị đánh cho câm giọng – mất luôn giọng nói mà nàng từng tự hào nhất. Cuộc sống càng thêm khốn khó, bi ai đến cùng cực, tương lai mịt mờ, một đời u uất.
Nàng ôm một cây tỳ bà cũ, buồn bã nói: “Tiếc thật, giọng đã khàn, không thể hát cho muội nghe nữa rồi.”
Ta nhìn nàng thật lâu, rồi đoạt lấy cây đàn trong tay nàng, quay người bước ra cửa: “Tỷ chỉ là già thêm vài tuổi thôi, chứ đâu phải sắp chết già. Theo ta.”
Ta từng nghĩ chỉ cần đưa nàng một đoạn đường, là có thể cho nàng một kết cục viên mãn. Nay nghĩ lại, lúc ấy ta vẫn còn quá non nớt, cách làm chưa thể chạm tới gốc rễ vấn đề.
Ta nhớ nàng thật ra rất giỏi vẽ, chỉ tiếc thân là kỹ nữ, tranh nàng vẽ tự nhiên chẳng bao giờ sánh được với tranh của văn nhân bút khách.
Trở về đô thành, ta để nàng đi theo quan viên Ty Thiên Giám, cùng vẽ bản đồ sông núi thành trì. Ung quốc đang không ngừng bành trướng, bản đồ mới cũng cần liên tục được hoàn thiện.
Oanh nương ngơ ngác đi theo rời đi.
Còn Thẩm Niệm Chương, ta giao cho phủ mưu sĩ. Không hiểu sao, đám lão thần ấy rất phản cảm với hắn – có lẽ cho rằng hắn chỉ là một “tiểu bạch kiểm” mà công chúa đưa tới để mạ vàng danh nghĩa.
Nhưng chẳng bao lâu sau, vị quân sư cao niên nhất lại hớn hở chạy tới tìm ta: “Điện hạ! Điện hạ đúng là tinh mắt như thần!”
Thẩm Niệm Chương vốn chẳng ngu ngốc, chỉ là xem hắn có muốn vận dụng tâm cơ hay không. Một khi hắn đã muốn, thì thu phục lòng người cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.
Sắp xếp xong đâu đó, ta gọi Song Vân đến, hỏi nàng: “Chủ cũ của ngươi đã quay về, ngươi có thể chọn theo hắn.”
Những năm qua, Song Vân chưa từng phụ lòng dặn dò của tiểu công tử, luôn chăm sóc ta chu đáo. Khi hành quân đánh trận hay nghị sự triều đình, ta thường ngày đêm mải mê lo liệu công việc, dù hoàn cảnh có gian khổ thế nào, nàng cũng cố gắng lo chu toàn từ bữa ăn đến y phục, tóc tai của ta.
Lý Nhị Ngưu thường cảm khái, từ khi có Song Vân, ông ấy mới không phải tự tay cầm kim thêu vá áo cho ta.
Lần đó ở Lâm Thành, khi thấy Thẩm Niệm Chương – người đã lâu không gặp, Song Vân suýt nữa òa khóc ngay tại chỗ.
Ta cứ ngỡ nàng còn lưu luyến chủ cũ, định để nàng quay về. Nhưng Song Vân quỳ xuống, kiên quyết nói: “Nô tỳ chưa từng nghe đạo lý một nha hoàn hầu hai chủ. Đã theo người, thì chỉ theo một người. Chỉ là… nô tỳ cảm khái, tiểu công tử cuối cùng cũng trở về dáng vẻ vốn nên có.”
Nhìn Thẩm Niệm Chương từ một thiếu gia bất học vô thuật, tiểu mập mạp ăn chơi lêu lổng, giờ hóa thành một quý công tử tài kinh văn võ, Song Vân lại muốn khóc nữa rồi.
Ta dỗ dành nàng, chuyện này cũng không nhắc đến nữa.
Chính sự thường ngày vụn vặt, cứ thế cuốn trôi tháng năm, chẳng mấy chốc lại thêm một năm trôi qua. Quan viên Ty Thiên Giám sớm đã hoàn thành nhiệm vụ trở về đô thành, nhưng Oanh nương lại lựa chọn tiếp tục chu du, ghi chép sông núi địa hình, phong thổ nhân tình, thỉnh thoảng sai người mang tài liệu về.
Ngày ấy, nàng đích thân quay về, vừa bước vào cung đã vội vàng ra hiệu cho ta đuổi lui người hầu, rồi hạ giọng đầy kích động nói: “Điện hạ, ta phát hiện ra một mạch khoáng sản!”
36
Lần này đích thân ta mang người đi thăm dò bí mật, quả nhiên là mạch khoáng sắt.
Chuyện này quả là trọng đại.
Rèn binh khí, dụng cụ canh nông, xây thành dựng nhà… đều cần đến sắt.
Loạn thế, có nhiều binh khí tức là có thêm nhiều phần thắng.
Nhưng ta còn chưa kịp sắp xếp người khai thác, chẳng hiểu sao tin tức đã rò rỉ ra ngoài, hai đại quốc lân cận cũng biết Ung quốc hiện đang nắm giữ một mạch khoáng sắt.
Trên triều, các đại thần ồn ào tranh cãi, ai nấy đều lo lắng.
Hiện nay thiên hạ phân liệt, chư hầu lớn nhỏ đua nhau xưng bá, nhưng cục diện tạm thời ổn định, sáu đại quốc kiềm chế lẫn nhau. Hai nước giáp ranh Ung quốc là Yến quốc và Nhiếp quốc, chính là hai trong số đó.
Yến Nhiếp đều là đại quốc, không giống như các nước nhỏ như Lương, Thi, Sái trước đây – so với bọn họ, Ung quốc còn kém xa một khoảng, chẳng khác nào cá nằm trên thớt, mặc người xẻ thịt.
“Ngọc có giá, người mang ngọc tất bị hại”, một mạch khoáng tưởng như là của báu, phút chốc lại hóa thành củ khoai bỏng tay. Triều thần đều lo Yến và Nhiếp sẽ thừa cớ phát binh, cướp khoáng sản, thôn tính Ung quốc.
Mưu sĩ lần lượt bày mưu tính kế, nhưng chưa ai nghĩ ra cách phá cục hiệu quả. Có người hỏi đến Thẩm Niệm Chương, người nãy giờ vẫn trầm mặc lặng im.
Hắn nhìn ta, chậm rãi buông một câu: “Tặng cho Nhiếp quốc.”
Lập tức bị quần thần mắng nhiếc, chê hắn là kẻ hèn nhát, cúi đầu dâng lợi.
Chờ tất cả mắng mỏi mồm, ta mới chậm rãi nói: “Được, cứ làm như vậy.”
Bởi vì, ta cũng nghĩ vậy.
Giao quyền kiểm soát mỏ sắt cho Nhiếp quốc, nhưng chỉ giao cho Nhiếp quốc.
Nếu giờ kháng cự, Ung quốc chắc chắn không địch nổi hai đại quốc hợp binh. Không ngoài dự đoán, chúng sẽ đánh tan Ung quốc, phân chia nuốt trọn.
Sớm một bước giao toàn bộ mỏ cho Nhiếp quốc, xem như tự rút lui khỏi tranh chấp, thì cuộc chiến tranh đoạt còn lại chính là giữa Yến và Nhiếp.
Bảo vật nằm trong tay ta thì cả hai đều muốn cướp, nhưng khi đã vào túi Nhiếp quốc, há Yến quốc lại cam lòng mà để yên? Lúc ấy nếu muốn đoạt, cũng chỉ còn nước tranh với Nhiếp quốc, chứ chẳng còn lý do gì đánh Ung.
Tại sao chọn Nhiếp quốc chứ không phải Yến quốc? Bởi vì Nhiếp quốc ở gần hơn.
Đây là dương mưu, rõ ràng bày ra đó, ai cũng thấy, nhưng chẳng ai từ chối nổi. Nhiếp quốc tự nhiên vui vẻ nhận lấy, còn cử người sang hỗ trợ khai thác mỏ.
Chỉ là, ta cũng đưa ra một điều kiện – đổi lại, Nhiếp quốc phải phát binh, giúp ta đánh chiếm Sái quốc.
Sái quốc nhẫn nhịn mưu đồ bấy lâu, binh mã rèn luyện sẵn sàng, vốn tưởng sẽ có đại chiến với Ung quốc một phen long trời lở đất. Nào ngờ đợi mãi, lại thấy quân Nhiếp quốc kéo tới, cùng quân Ung hợp binh đánh úp. Chưa đầy một tháng, Sái quốc sụp đổ.
Ung quốc thu về hơn một nửa lãnh thổ của Sái quốc, bản đồ quốc gia lại mở rộng thêm một mảng lớn.
Chẳng bao lâu sau, Yến quốc biết chuyện Ung và Nhiếp liên minh, lại nghe rằng mỏ sắt quý giá bị ta dâng cho Nhiếp quốc, chẳng được phần nào, tức giận đến mức lập tức phát binh. Nhiếp quốc vốn đã toan độc chiếm lợi ích, lại cho người giám sát dân Ung khai mỏ, tất nhiên không thể để Ung quốc bị hạ – liền phát binh chống lại.
Yến – Nhiếp vốn đã bất hòa, nay thù cũ chưa tan, lại thêm thù mới, chiến hỏa lại bùng lên.
Hai nước đánh nhau, Yến quốc thực ra cũng không còn hơi sức đâu để dây dưa với Ung quốc nữa. Từng vài lần đánh sang, đều bị quân Nhiếp chặn đứng, cuối cùng cũng thôi không còn thường xuyên xuất binh.
Trong cơn sóng gió, Ung quốc lại vững vàng một cách kỳ lạ. Bốn năm trôi qua, quốc lực ngày một mạnh, dân sinh ngày một hưng thịnh.
Nhiếp quốc còn gửi sang vài mỹ nhân để cầu thân, có cả công chúa nước họ, và vài người là tàn dư hoàng thất của Thi quốc, từng bị bán sang Nhiếp quốc.
Dân Ung quốc dường như sắp quên mất Lý Nhị Ngưu – vị Hoàng đế bù nhìn, mà bản thân ông ấy thì chỉ xem mình là tướng tiên phong xông trận. Gần đây chẳng còn chiến trận, ông ấy liền thảnh thơi an nhàn, vô cùng khoái trá.
Nghe nói Nhiếp quốc gả thê tử sang, Lý Nhị Ngưu hoảng hốt, tay chân luống cuống, gãi đầu nói: “Ta sao dám nhận mỹ nhân quý giá thế này chứ?”
Chạy mất hút.
E rằng ông ấy định một đời thủ tiết vì mẹ ta.
Ta cũng chẳng cần mấy người kia, nhưng lễ không thể không nhận, bởi lẽ từ chối e rằng đắc tội với Nhiếp quốc.
Có lẽ họ nhìn thấy Lý Nhị Ngưu không vợ không con, bên cạnh chỉ có ta – con gái nuôi, và Chu Linh – coi như nghĩa tử, cho nên muốn thông qua việc an bài hậu cung, nắm giữ huyết mạch Ung quốc, gia tăng ảnh hưởng lên triều chính.
Quốc gia đang lên, thế tất khiến các nước cảnh giác.
Thôi vậy.
Người cũng đã đưa đến rồi.