Muốn Đi Tìm Chết? Xin Mời - Chương 2
4.
Sau khi họ rời đi, tôi nhìn ông nội nằm trên giường ngày càng yếu đi.
Mắt mờ, tay chân co giật—không thiếu thứ nào.
“Ông ơi, hay là ông uống chút nước nhé!” Tôi chạy ra sân múc một bát nước lã mang vào.
Ông nhận bát nhưng gầm lên, mắt đầy nghi ngờ: “Sao cả nhà uống hết mà chỉ có mày không đụng đến? Có phải mày biết gì rồi, định đầu độc cả nhà không?!”
Tính ông vốn nóng, nay đã nghi ngờ thì ra tay chẳng nể.
Một cái tát giáng xuống khiến mặt tôi hiện rõ năm dấu tay đỏ chót.
Nhưng tôi vẫn giữ bình tĩnh, tiếp tục vờ như chẳng hiểu gì, dù gì ông cũng chẳng có bằng chứng, mà chuyện này vốn không phải do tôi làm.
“Con không có. Ông không muốn uống thì thôi.” Tôi đặt bát nước sang một bên, rồi đi vào bếp rửa hết nồi niêu, kể cả cái nồi nấu nước mía.
Đến khi nghe tiếng bát sứ rơi vỡ loảng xoảng, tôi quay lại thì thấy ông đã đại tiểu tiện ngay trên giường.
Lúc này ông mới bắt đầu sợ, liên tục lẩm bẩm: “Mau đưa tao đi trạm y tế… Không, phải lên bệnh viện lớn!”
“Nhưng con không đỡ nổi ông đâu, người trong làng đều đi theo bố mẹ con rồi. Hay để con lên thị trấn tìm họ nhé?” Tôi hỏi.
Nhưng với tình trạng hiện tại, ông có chờ được đến lúc đó hay không thì không ai dám chắc.
Đã không còn cách nào khác, ông đành vẫy tay giục tôi đi nhanh.
Tôi cầm lấy đèn pin, lại lần nữa rời nhà trong gió rét.
Gió lạnh thổi tê tái, tôi kéo chặt cái áo bông cũ sờn rách, bước chân chậm rãi đi về phía thị trấn.
Mất đúng một tiếng sau, tôi mới đuổi kịp họ tại trạm y tế.
Thấy tôi tới, mấy người làng đang đứng xem đều tránh ra, vừa nhìn vừa bàn tán: “Chiêu Đệ à, chắc anh mày không qua khỏi đâu…”
“Ừ đấy! Bác sĩ nói đồng tử giãn hết rồi!”
“Cả mẹ mày nữa, cũng không khả quan đâu. Trạm đang gọi xe đưa lên bệnh viện huyện!”
Bố tôi đang rên rỉ trên giường bệnh, thấy tôi thì bật dậy, giáng cho tôi một bạt tai: “Không ở nhà trông ông mày, mò đến đây làm gì?!”
“Ông kêu con tới. Ông… ỉa ra giường rồi! Kêu bố tìm cách đưa ông đi viện.”
Ông nội vốn ăn nhiều hơn bố tôi một bát, lại già yếu, nên phản ứng nặng hơn cũng là điều dễ hiểu.
Bố tôi ngớ người một lúc rồi vội vàng quay sang trưởng thôn cầu cứu: “Anh trưởng thôn! Nhờ anh bảo người quay lại đưa bố tôi đi với!”
Thế là mấy người dân trong làng dưới sự chỉ đạo của trưởng thôn lại quay về đón ông.
Trong lúc chờ họ quay lại, anh tôi trên giường bệnh bắt đầu co giật dữ dội.
Rồi đột nhiên… bất động.
Bác sĩ đến kiểm tra hơi thở, rồi lạnh lùng thông báo: “Bệnh nhân đã tử vong. Nghi ngờ nguyên nhân là ngộ độc thực phẩm.”
Mẹ tôi đang rên rỉ, nghe vậy liền khóc gào thảm thiết: “Con ơi! Con đi rồi, mẹ sống sao nổi nữa?!”
Bố tôi cũng đổ gục xuống giường, nét mặt tràn đầy tuyệt vọng.
Nhưng bi kịch này… mới chỉ bắt đầu.
5.
Tối hôm đó, trưởng thôn gọi xe, đưa cả nhà tôi lên bệnh viện lớn trên thành phố trong đêm.
Vì bố tôi ăn không nhiều, lại là người khoẻ nhất, nên tới nửa đêm đã có thể xuống giường đi lại.
Mẹ tôi thì được cứu sống, nhưng vì đưa đi muộn quá, mắt đã mờ nặng, một bên thì hoàn toàn mù.
Còn ông nội—người chậm trễ nhất, cuối cùng bị liệt.
Ông chính là người kiếp trước suốt ngày mắng tôi ăn hại, giờ lại thành người liệt.
Quả báo đến sớm, lòng tôi sướng rơn!
Ba ngày sau, khi cả nhà trở về sân nhà, thi thể anh tôi đã bắt đầu phân huỷ, bốc mùi nồng nặc đến mức đứng xa cũng phải bịt mũi nôn khan.
Nhưng chẳng còn cách nào khác, nhà không có ai ở lại, chẳng ai lo ma chay cho hắn.
Dù bệnh viện kết luận rõ ràng là ngộ độc thực phẩm, chỉ ra nguyên nhân do mía đỏ bị mốc, nhưng mẹ tôi vẫn nhìn đống mía chất ở góc nhà mà tiếc đứt ruột.
Bà nghĩ: trước kia cũng ăn mía đỏ mốc suốt, có chết ai đâu?
Lần này chắc chỉ trùng hợp thôi, bác sĩ không tìm ra nguyên nhân thật, nên mới đổ vấy lên mía!
Thế nên khi tôi đề nghị đem đống mía đó ra bếp đốt làm củi, mẹ không những không đồng ý, mà còn vụt tôi một trận ra trò.
“Đồ phá của! Mía này tròn trịa, thẳng tưng, nhìn thế sao mà độc được! Bác sĩ chắc chắn nhầm rồi!” Bà vừa mắng vừa quất chổi, tóc tôi bị đánh rối tung lên.
Bố tôi nghe thấy, nhưng chẳng nói gì, vì trong lòng ông cũng có chút lưỡng lự—làng mình trước giờ cũng từng ăn mía đỏ, đâu có ai chết?
Nhà đang làm đám cho anh tôi, không có hoa quả thì cũng phải mua bên ngoài.
Táo lê ngoài chợ mắc lắm!
Thế là mẹ gọt vỏ đống mía mốc, chặt thành từng khúc, đưa cho bố bày lên bàn thờ: “Mọi người ăn đi, mía ngon lắm đấy!”
Mấy người hàng xóm đến giúp việc đám ma, ai nấy đều mệt lử sau nửa ngày chạy việc, nên ngồi xuống cắn một khúc mía cho đỡ khát.
Có người vừa gặm vừa hỏi bố tôi: “Nghe nói nhà anh lần trước bị ngộ độc? Bác sĩ có nói rõ là do món nào không để tụi tôi còn tránh?”
“Bác sĩ bảo do mía đỏ mốc gây ra. Nhưng tôi thấy nói thế vô lý! Mía đỏ cả làng này ăn suốt có ai sao đâu?” Bố tôi đáp tỉnh bơ.
Mọi người nhìn xuống tay mình—cả khúc mía đỏ đang cầm—ai nấy chết lặng.
Biết mía gây ngộ độc chết người mà vẫn đem ra đãi khách?
Mạng người với nhà này không là gì chắc?
Thế sao không thấy người nhà ăn đi?
Ngoài vài người không quan tâm, phần lớn lập tức đặt mía xuống bàn, có người thậm chí móc họng nôn thốc nôn tháo: “Ọe~”
Đến chiều, trong số hàng xóm đến giúp, vài người bắt đầu choáng váng, buồn nôn.
Trưởng thôn thấy vậy thì tái mặt: “Chết rồi!”
Ông vội đưa họ tới trạm y tế.
May mắn, vì mọi người chỉ ăn một ít nên sau khi được cứu chữa kịp thời, chỉ có một người nặng nhất phải chuyển lên thành phố, còn lại đều qua cơn nguy hiểm.
6.
Sáng hôm sau, người được chuyển lên bệnh viện… chết rồi.
Nhà tôi đang chuẩn bị đưa quan tài anh tôi lên núi chôn cất thì người nhà của người chết kia đã mặc đồ tang trắng, kéo nhau đến chặn ngay lối đi bắt buộc phải qua.
“Đền mạng đi! Mấy người rõ ràng biết đống mía đó có độc mà còn đưa cho chồng tôi ăn! Các người cố tình đầu độc người ta!” Vợ người chết gào lên, giật tóc mẹ tôi không buông, vừa khóc vừa la lối om sòm.
“Bác sĩ nói mía có độc thì tôi cũng đã nói rồi, chồng chị còn ăn là do ổng chọn, chết là đáng đời, chẳng liên quan gì tới tôi cả!” Mẹ tôi vội vàng chối bay, càng nói càng khiến người ta nổi điên hơn.
“Không đền tiền thì hôm nay đừng hòng qua đây!” Vợ người chết vừa hét vừa vẫy tay ra hiệu, mấy người bên nhà mẹ đẻ của chị ta lập tức giơ cả bó đòn gánh ra, rõ ràng là muốn đánh thật.
Những người hàng xóm đến giúp, thấy tình hình căng như dây đàn thì lập tức buông hết khăn tang trên tay.
Người khiêng quan tài cũng đặt ngay xuống đất: “Chuyện của hai nhà, bọn tôi không liên quan! Tự xử đi!” rồi kéo nhau bỏ hết.
Tôi thấy vậy cũng len lén chuồn mất.
Đời này khôn sống mống chết, tôi chẳng ngu gì ở lại chịu trận.
Mọi người ngoài cuộc đều đã rút, mà nhà tôi lại nhất quyết không chịu bồi thường, thế là vợ người chết cho mấy gã trai lực lưỡng nhà mình bao vây bố mẹ tôi lại.
Tôi không biết họ nói gì, cũng không biết đánh nhau thế nào, chỉ biết tôi đã chạy rất xa rồi mà vẫn còn nghe tiếng bố mẹ tôi kêu la thảm thiết.
Đến khi họ quay về sân nhà thì đã có cảnh sát đi cùng.
Sau một hồi điều tra, công an lấy lý do đầu độc người khác mà bắt giữ bố tôi.
Có lẽ, ông sẽ không sớm được thả về.
Sau khi bố bị đưa đi, mẹ tôi suốt ngày ngồi than khóc: “Chỉ là ăn cây mía thôi mà, sao mọi chuyện lại thành ra thế này chứ!”
Còn quan tài của anh tôi, vì chẳng ai chịu khiêng nữa, nên chỉ có thể đốt tại chỗ.
Cuối cùng, thứ còn lại chỉ là một hũ tro đen được đặt lặng lẽ trong cái góc nhà âm u.
Tình hình trong nhà ngày càng tồi tệ.
Ông nội thì liệt giường, bố đi tù, gánh nặng cơm áo rơi hết lên đầu mẹ tôi.
Bà phải làm việc quần quật cả ngày ngoài đồng.
Còn tôi, ngày ngày phải dọn phân rửa ráy cho ông, sáng nào cũng phải thắp hương cho cái hũ tro của anh tôi, việc dọn dẹp, nấu nướng, không việc nào thoát khỏi tay tôi.
Dù vậy, mẹ tôi vẫn chẳng cho tôi ăn no.
Bà luôn nói: “Con gái con đứa, ăn lắm cũng chỉ tổ phí cơm!”
Thỉnh thoảng tôi ngỏ ý muốn đi học, chỉ cần mở miệng là bị đánh không thương tiếc: “Muốn gì mà muốn! Mày đi học thì ai làm việc nhà hả?!”
Còn đống mía còn sót lại, ngày một mục rữa thối hoắc, mẹ tôi nhìn mà tiếc đứt ruột.
Nhưng lần này bà cũng không dám ăn nữa.
Cuối cùng, cả bó mía bị quăng vào đống lửa.
Khi nó cháy, mẹ tôi khóc.
Bà khóc vì số phận mình khổ, khóc vì anh tôi mạng ngắn, khóc vì bố tôi không khôn ngoan, rồi khóc luôn vì tôi—khóc sao tôi không sớm cảnh báo bà mía có độc.
Bà đổ lỗi cho tất cả mọi người, chỉ có mỗi chính bà là được gạt sang một bên, vô can tuyệt đối.
7.
Sau này không hiểu sao, mẹ tôi lén lút dan díu với trưởng thôn sau lưng vợ ông ta.
Nói vài câu ngọt nhạt gối đầu, trưởng thôn liền hứa sẽ giúp bà và ông nội tôi làm hồ sơ xin trợ cấp hộ nghèo.
Mẹ tôi hí hửng lắm, về nhà khoe ầm lên với chúng tôi: “Từ giờ tao cũng có thu nhập ổn định rồi nha!”
Không thể để chuyện đó xảy ra!
Tôi tính toán kỹ thời điểm cán bộ hỗ trợ từ thành phố về thăm làng.
Lúc bà đang ngủ trưa, tôi giả vờ bưng không chắc tay, úp nguyên bô phân tiểu của ông nội thẳng vào mặt bà.
Cứt đái loang đầy cả đầu tóc, mặt mũi.
“Con ranh này! Mày cố tình làm tao ghê tởm đúng không?!” Bà hét ầm lên, rút luôn cây roi mây bên giường, vung tay định đánh.
“Con không cố ý đâu! Nhưng nếu mẹ còn đánh, thì sau này mấy việc này mẹ tự làm!” Tôi bịt mũi, lùi tránh sang một bên.
Bà càng điên lên, quất tôi tới tấp, đánh đến nỗi tôi lăn khắp sân.
Đúng lúc đó, cổng nhà vang lên tiếng người.
Một nhóm người từ thành phố vừa bước vào, chắc là đoàn cán bộ phụ trách hỗ trợ nghèo.
Đi sau họ chính là trưởng thôn.
Mẹ tôi thấy người nhưng chẳng hề dừng tay, ngược lại còn gắt gỏng: “Nhìn cái gì mà nhìn? Chưa thấy mẹ dạy con à?!” Rồi tiếp tục cầm roi đuổi tôi đánh khắp sân.
“Dừng lại ngay! Bà đánh con kiểu đó là muốn đánh chết nó à? Vô học! Độc ác!” Một người dẫn đầu trong nhóm cán bộ tức đến đỏ mặt.
Tôi lập tức mở toang cổng, chạy nấp sau lưng họ, vừa khóc vừa gọi cứu: “Chú ơi! Cứu cháu với!”
Kiếp trước, những người này cũng từng đến.
Họ muốn làm hồ sơ hỗ trợ cho tôi, nhưng tôi không được nhận lấy một đồng nào.
Tháng nào tiền cũng bị bố mẹ và anh tôi tiêu sạch.
Kiếp này, mẹ tôi không xứng nhận đồng nào!
“Tránh ra! Con tôi thì tôi đánh!” Mẹ tôi đang hôi rình, cầm roi lao ra, suýt nữa quật trúng luôn một cán bộ.
Nhóm cán bộ ai nấy đều bịt mũi, tránh xa ra một đoạn.
Họ quay sang nhìn trưởng thôn đang xanh mặt đứng sau lưng: “Đây là cái nhà ông nói là hộ cần giúp đỡ? Cái bà chửi rủa, đánh đập con giữa sân này mà xứng đáng nhận trợ cấp? Không có cửa!”
Một câu nói dập tắt toàn bộ giấc mơ tiền trợ cấp của mẹ tôi, dù bà ta có trèo được lên giường trưởng thôn đi chăng nữa.
Mẹ tôi hoàn toàn không ngờ những người này là cán bộ thành phố, choáng váng ngồi sụp xuống đất khóc lóc: “Chồng tôi bị bắt rồi! Bố chồng thì liệt giường! Con trai tôi cũng mới chết! Sao tôi lại không xứng nhận trợ cấp hả trời?!”
Nhưng những người đó chẳng thèm rơi một giọt thương hại nào.
Họ nhìn tôi—một đứa gầy nhom, thấp bé—ánh mắt bắt đầu lộ ra chút xót xa.
Một người hỏi: “Con mấy tuổi rồi? Học lớp mấy rồi?”
“Mẹ cháu bắt làm việc nhà, không cho cháu đi học…” Tôi nghẹn giọng, mắt đỏ hoe, ngước lên nhìn họ đầy mong chờ.
“Gần bảy tuổi rồi mà không cho đi học à?! Vô lý! Ngày mai phải đến trường ngay lập tức! Trưởng thôn, chuyện này là lỗi của ông đấy!”
Cán bộ mắng thẳng vào mặt trưởng thôn và mẹ tôi một trận.
Chỉ đến khi cả hai đồng thanh cam đoan sẽ cho tôi đi học, họ mới chịu rời đi.
Hôm sau, cô giáo trường làng mang đến cho tôi một chiếc cặp sách mới tinh, thêm một hộp bút.
Trong ánh mắt tức tối của mẹ, gần bảy tuổi, tôi lần đầu tiên được bước vào lớp học như một đứa trẻ bình thường.